✨Kinh tế học môi trường

Kinh tế học môi trường

Kinh tế học môi trường là một chuyên ngành của kinh tế học ứng dụng đề cập đến những vấn đề môi trường (thường còn được sử dụng bởi các thuật ngữ khác). Khi sử dụng các phương pháp chuẩn tắc của kinh tế học tân cổ điển, nó được phân biệt với kinh tế xanh hay kinh tế sinh thái trong đó bao gồm cả các cách tiếp cận không chuẩn tắc cho những vấn đề môi trường, khoa học môi trường, nghiên cứu môi trường, hoặc sinh thái. Theo chương trình Kinh tế học Môi trường của Cơ quan Quốc gia về Nghiên cứu Kinh tế (NBER), Mỹ:

:[...]Kinh tế học môi trường [...] thực hiện các nghiên cứu lý thuyết hoặc thực nghiệm về các ảnh hưởng kinh tế của các chính sách quốc gia hay địa phương trên toàn thế giới [...]. Những vấn đề cụ thể bao gồm chi phí và lợi ích của các chính sách môi trường mang tính thay thế cho nhau để giải quyết những vấn đề như ô nhiễm không khí, chất lượng nước, các chất độc hại, chất thải rắn, và nóng lên toàn cầu.[https://web.archive.org/web/20031209125959/http://www.nber.org/workinggroups/ee/ee.html]

Lĩnh vực có liên quan (có thể là cách tiếp cận thay thế cho cùng lĩnh vực) là Kinh tế học sinh thái, mà được xem như là tiền đề rằng kinh tế học là một lĩnh vực con thật sự của sinh thái học.

Các chủ đề và khái niệm

Trung tâm của kinh tế học môi trường là khái niệm ảnh hưởng ngoại lai. Điều này có nghĩa là một số ảnh hưởng của một hoạt động đã không được tính hết vào trong giá của nó. Ví dụ, ô nhiễm vượt quá mức "tối ưu" xã hội có thể xảy ra nếu giá mà người sản xuất đưa ra không trang trải đủ các chi phí gây ra cho người bị ảnh hưởng tiêu cực. Một ví dụ nổi tiếng về ảnh hưởng ngoại lai là Bi kịch của mảnh đất công của Garrett Hardin, xảy ra gắn liền với các hàng hóa công cộng. Du khách tham quan một khu vực giải trí miễn phí sẽ sử dụng tài nguyên nhiều hơn nếu họ phải trả tiền cho nó, dẫn đến sự xuống cấp môi trường. Tất nhiên điều này giả định rằng không có một công cụ chính sách nào (ví dụ như giấy phép, các quy định) được sử dụng để quản lý việc vào tham quan.

Trong thuật ngữ kinh tế, đó là những ví dụ về những thất bại thị trường, và đó là kết quả mà không hiệu quả dưới quan điểm kinh tế. Ở đây tính không hiệu quả được gây ra do bởi một hoạt động gây quá nhiều ô nhiễm được thực hiện, khi mà người gây ô nhiễm không quan tâm đến lợi ích của những người bị ảnh hưởng tiêu cực từ ô nhiễm. Điều này đã dẫn đến những nghiên cứu gây tranh cãi trong việc đo lường phúc lợi nhằm lượng hóa trong khi ô nhiễm bắt đầu thực sự ảnh hưởng đến sức khỏe con người và chất lượng cuộc sống nói chung.

Các giải pháp

Các giải pháp nhằm giải quyết những ảnh hưởng ngoại lai đó bao gồm:

Xác định đầy đủ hơn quyền tài sản

Định lý Coase cho rằng việc quy định quyền tài sản sẽ dẫn đến một giải pháp tối ưu, mà không cần biết là ai được quyền nhận chúng, nếu các chi phí giao dịch là không đáng kể và số lượng những bên tham gia thương lượng là hạn chế. Ví dụ, nếu những người sống gần một nhà máy có quyền sử dụng nước và không khí sạch, hoặc nếu nhà máy có quyền gây ô nhiễm, khi đó có thể là nhà máy có thể trả cho những người bị ảnh hưởng bởi ô nhiễm hoặc cũng có thể những người này có thể trả cho nhà máy để không gây ô nhiễm. Hoặc, chính những người dân có thể hành động khi họ muốn nếu những quyền về tài sản khác bị vi phạm.

Luật những người gác sông ở Mỹ của thập niên 1880 là một ví dụ ban đầu, cho phép những cư dân ở cuối sông quyền giới hạn ô nhiễm ở đầu sông nếu chính phủ không hành động (một ví dụ ban đầu về dân chủ vùng sinh thái. Nhiều thị trường về "quyền ô nhiễm" đã được tạo ra cuối thế kỷ 20. -- Xem Mua bán các khí thải.

Việc xác nhận rõ quyền tài sản là một giải pháp cho vấn đề gây tranh cãi trong lĩnh vực kinh tế học môi trường và luật môi trường và rộng hơn là chính sách; trong các hệ thống Anh_Mỹ và nhiều hệ thống luật pháp khác, một người có quyền thực hiện bất kỳ một hành động nào trừ phi luật pháp cấm tuyệt đối về điều đó. Vì vậy, quyền tài sản đã được quy định (nhà máy đang gây ô nhiễm có quyền gây ô nhiễm).

Đánh thuế ô nhiễm

Gia tăng các chi phí ô nhiễm sẽ ngăn cản việc gây ô nhiễm, và sẽ cung cấp "động cơ năng động", mà tiếp tục hoạt động thậm chí khi các mức ô nhiễm đã giảm. Thuế ô nhiễm nhằm giảm ô nhiễm đến mức "tối ưu" xã hội có thể thiết lập một mức mà ô nhiễm chỉ có thể xảy ra nếu lợi ích cho xã hội (như, dưới dạng sản xuất nhiều hơn) vượt quá chi phí. Một số ủng hộ một sự thay đổi chủ yếu từ việc đánh thuế vào thu nhập và doanh số sang đánh thuế vào ô nhiễm - cái gọi là "sự thay đổi thuế xanh".

Hạn ngạch về ô nhiễm

Biện pháp giảm ô nhiễm bằng cách áp dụng các giấy phép thải có thể chuyển nhượng nhận được nhiều sự ủng hộ. Người ta cho rằng nếu những giấy phép này được mua bán tự do thì có thể giảm thiểu ô nhiễm ít ra là về mặt chi phí. Theo lý thuyết, nếu việc chuyển nhượng hạn ngạch được cho phép, khi đó một hãng có thể giảm lượng ô nhiễm của mình nếu làm như thế là rẽ hơn việc trả tiền để thuê người khác làm. Trong thực tế, cách tiếp cận giấy phép có thể chuyển nhượng đã đạt được một số thành công, ví dụ chương trình mua bán dioxide lưu huỳnh của Mỹ, sự quan tâm trong việc áp dụng nó đã lang tỏa sang một số vấn đề môi trường khác.

Các quy định về môi trường

Tác động kinh tế ở đây đã được ước lượng bởi những người ra quy định. Thường điều này được thực hiện bởi phân tích chi phí - lợi ích. Có một sự gia tăng về việc thực hiện các quy định (còn được biết đến như là các công cụ "mệnh lệnh và quản lý") là không khác biệt nhiều với các công cụ kinh tế như thường được công nhận bởi những người đề xuất thuộc kinh tế môi trường. Ví dụ 1, các quy định được tuân thủ bởi tiền phạt, mà hoạt động dưới dạng thuế nếu ô nhiễm vượt quá ngưỡng quy định. Ví dụ 2, ô nhiễm phải được giám sát và tuân thủ, cho dù là dưới chế độ thuế ô nhiễm hoặc chế độ quy định. Sự khác biệt chủ yếu mà một nhà kinh tế môi trường có thể tranh luận tồn tại giữa hai phương pháp, tuy nhiên, là tổng chi phí của quy định. Quy định về "mệnh lệnh và quản lý" thường áp dụng các giấy phép thải đồng nhất đối với người gây ô nhiễm, mặc dù mỗi hãng có chi phí khác nhau trong việc giảm thải. Một số hàng, trong hệ thống này, có thể giảm thải không tốn kém lắm, trong khi đó những hãng khác lại giảm thải với chi phí cao. Chính vì điều này, tổng chi phí giảm thải có một số nỗ lực tốn kém và không tốn kém để giảm thải. Các quy định về kinh tế môi trường tìm kiếm trước hết là các nỗ lực giảm thải rẽ nhất, rồi mới đến các phương pháp tốn kém hơn. Ví dụ, như đã nói trước đây, mua bán, trong hệ thống quota, có nghĩa là hãng chỉ giảm thải nếu làm việc đó là ít tốn kém hơn so với việc thuê người khác làm việc đó. Điều này làm giảm chi phí cho nỗ lực giảm thải toàn bộ.

Các cách tiếp cận thay thế đối với kinh tế học môi trường

Tất cả những gì đề cập ở trên được tán thành bởi lý thuyết cụ thể về vốn thiên nhiên (Hawken, Lovins, Lovins). Cuốn sách đi xa hơn bằng cách hình dung về một thế giới mà ở đó các dịch vụ thiên nhiên được đề cập ngang hàng với vốn vật chất.

Một bối cảnh khác mà ở đó các ngoại ứng được áp dụng khi toàn cầu hóa cho phép một người chơi trên thị trường - mà người này không quan tâm đến đa dạng sinh học đưa ra giá rẻ hơn một người khác - mà người này tạo nên "cuộc chạy đua" trong các quy định và bảo tồn. Đến lược điều này có thể gây nên những mất mát về vốn thiên nhiên với hậu quả là vấn đề rửa trôi, các vấn đề về nước tinh khiết, dịch bệnh, sa mạt hóa, và những hậu quả khác mà theo quan điểm kinh tế là không hiệu quả. Sự quan tâm này liên quan đến một lĩnh vực con về phát triển bền vững và những mối quan hệ chính trị của nó, phong trào chống toàn cầu hóa.

Kinh tế học môi trường đã từng được phân biệt với kinh tế học tài nguyên nhưng bây giờ rất khó để mà phân biệt như là một lĩnh vực tách biệt khi mà cả hai đã trở nên gắn liền với sự bền vững và căn bản hơn các nhà kinh tế xanh tách ra để làm việc cho một lĩnh vực thay thế kinh tế chính trị.

Kinh tế học môi trường là một tác nhân chính đối với các lý thuyết về chủ nghĩa tưu bản thiên nhiên và tài chính môi trường, mà có thể nói rằng là cả hai nhánh con của kinh tế học môi trường quan tâm đến lần lượt là bảo tồn tài nguyên trong sản xuất, và giá trị đa dạng sinh học đối với nhân loại.

Căn bản hơn các nhà kinh tế học xanh bát bỏ kinh tế học tân cổ điển để ủng hộ kinh tế chính trị mới vượt qua chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa cộng sản mà nhấn mạnh đến sự tương tác qua lại giữa kinh tế con người và môi trường tự nhiên, thừa nhận rằng "kinh tế là ba phần năm của sinh thái học" - Mike Nickerson.

Những cách tiếp cận căn bản hơn này có thể ám chỉ những thay đổi đối với cung tiền và cũng có thể là sự dân chủ vùng sinh học do đó "những giới hạn về môi trường" chính trị, kinh tế, và sinh thái được sắp thành một hàng, và không phải chịu sự buôn chứng khoán thường có thể dưới chủ nghĩa tư bản.

Theo đó, vẫn còn có nhu cầu cho lĩnh vực kinh tế học môi trường bảo tồn hơn, và các lĩnh vực con của nó tài chính môi trường, vốn thiên nhiên, đo lường phúc lợi và phát triển bền vững.

👁️ 22 | ⌚2025-09-03 20:58:28.584
Mua hàng tại Shopee giảm thêm 30%

**Kinh tế học môi trường** là một chuyên ngành của kinh tế học ứng dụng đề cập đến những vấn đề môi trường (thường còn được sử dụng bởi các thuật ngữ khác). Khi sử
**Kinh tế học** (Tiếng Anh: _economics_) là môn khoa học xã hội nghiên cứu sự sản xuất, phân phối và tiêu dùng các loại hàng hóa và dịch vụ. Kinh tế học cũng nghiên cứu
**Trường phái kinh tế học Áo** là một trường phái tư tưởng nghiên cứu các hiện tượng kinh tế học dựa trên giải thích và phân tích những hành động có mục đích của các
**Kinh tế học tân cổ điển** là một trường phái kinh tế học có trọng tâm nghiên cứu là cơ chế quyết định giá cả, sản lượng, phân phối thu nhập thông qua nguyên lý
## Kinh tế học vĩ mô ;Kinh tế học vĩ mô là gì? :Kinh tế học vĩ mô :Tổng sản phẩm nội địa :Số nhân (kinh tế học) :Thất nghiệp :Lạm phát ;Nền kinh tế
**Kinh tế học vĩ mô**, **kinh tế vĩ mô**, **kinh tế tầm lớn** hay đôi khi được gọi tắt là **vĩ mô** (Tiếng Anh: _macroeconomics_), là một phân ngành của kinh tế học chuyên nghiên
**Kinh tế học quốc tế** là một bộ môn khoa học, một chuyên ngành của kinh tế học nghiên cứu sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các quốc gia. Kinh tế học
**Các nguyên lý của [[kinh tế học**]] **Các nguyên lý của kinh tế học** là những quy luật tổng quan về kinh tế học và là những dự báo có thể xảy ra trong nền
**Trường phái kinh tế học Chicago** (tiếng Anh: **Chicago School of economics**) là một trường phái tư tưởng kinh tế học tân cổ điển gắn liền với công việc của giảng viên tại Đại học
phải|nhỏ|200x200px| Các lớp học về kinh tế sử dụng rộng rãi các biểu đồ cung và cầu như biểu đồ này để dạy về thị trường. Trong đồ thị này, S và D là cung
**Kinh tế học cổ điển** hay **kinh tế chính trị cổ điển** là một trường phái kinh tế học được xây dựng trên một số nguyên tắc và giả định về nền kinh tế để
**Kinh tế học hành vi** và lĩnh vực liên quan, **tài chính hành vi**, nghiên cứu các ảnh hưởng của xã hội, nhận thức, và các yếu tố cảm xúc trên các quyết định kinh
**Kinh tế học vĩ mô cổ điển mới** (tiếng Anh: _new classical macroeconomics_) là bộ phận kinh tế học vĩ mô dựa trên kinh tế học tân cổ điển, hình thành từ thập niên 1970.
**Kinh tế học vi mô** hay là _kinh tế tầm nhỏ_ (Tiếng Anh: _microeconomics_), là một phân ngành của kinh tế học chuyên nghiên cứu về đặc điểm, cấu trúc và hành vi của cả
Thế kỷ 19 đã bắt đầu xuất hiện những manh nha của **Kinh tế học vĩ mô** (KTHVM). Sự phát triển, thăng trầm của đời sống thương mại đã được một số tác giả ghi
**Kinh tế học kinh doanh** là một lĩnh vực trong kinh tế học ứng dụng trong đó sử dụng lý thuyết kinh tế và phương pháp định lượng để phân tích doanh nghiệp và những
**Kinh tế học thực nghiệm** (_experimental economics_) là việc áp dụng các phương pháp thực nghiệm để nghiên cứu các câu hỏi kinh tế. Dữ liệu thu thập được trong các thí nghiệm được sử
“Kinh Tế Học Thời Khó Nhọc” là cuốn sách táo bạo, giàu dữ liệu và nhân văn của hai nhà kinh tế đoạt giải Nobel – Esther Duflo và Abhijit Banerjee – nhằm phản biện
Kinh tế học dễ xơi Khi kinh tế gia bụng đói giải thích về thế giới Tác giả: Ha-Joon Chang Dịch giả: Hải Đăng NỘI DUNG CHÍNH “Kinh tế học dễ xơi – Khi kinh
PRE-ORDER - HÀNG ĐẶT TRƯỚC DỰ KIẾN HÀNG VỀ: 31/12/20224 Kinh tế học dễ xơi Khi kinh tế gia bụng đói giải thích về thế giới Tác giả: Ha-Joon Chang Dịch giả: Hải Đăng NỘI
Theo nhận định của một số chuyên gia kinh tế học, **hiệu ứng lấn át** trong kinh tế là hiện tượng xảy ra khi sự tham gia của chính phủ trong một lĩnh vực nào
**Kinh tế học thông tin** là một nhánh của lý thuyết kinh tế vi mô nghiên cứu cách thức hệ thống thông tin và thông tin ảnh hưởng đến một nền kinh tế và các
**Kinh tế học Keynes** là hệ thống lý luận kinh tế vĩ mô lấy tác phẩm _Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ_ (thường được gọi tắt là _Lý thuyết
**Kinh tế học Keynes mới** là một trường phái kinh tế học vĩ mô tìm cách thuyết minh mệnh đề trung tâm về giá cả và tiền công cứng nhắc trong ngắn hạn của kinh
**Lao động**, trong kinh tế học, được hiểu là một yếu tố sản xuất do con người tạo ra và là một dịch vụ hay hàng hóa. Người có nhu cầu về hàng hóa này
**Kinh tế học vĩ mô tổng hợp** là một trường phái kinh tế học vĩ mô dựa trên việc tổng hợp các học thuyết của kinh tế học tân cổ điển với kinh tế học
Kinh Tế Học Hài Hước Cuốn sách Kinh tế học hài hước của Steven D. Levitt, Stephen J. Dubner là điển hình cho lối tư duy mới trong kinh tế. Bắt đầu cuốn sách bằng
Tác phẩm: “TINH HOA KINH TẾ HỌC” (Essentials of Economics) Tác giả: Paul Krugman & Robin Wells Người dịch: Nguyễn Trường Phú & Hồ Quốc Tuấn PACE BOOKs phát hành | NXB Tổng Hợp TINH
Khải Minh Books luôn có cách tiếp cận sách khoa học ở đẳng cấp cao. Tôi được biết đây là cuốn sách gối đầu giường về KINH TẾ HỌC. Giữ vị trí vô song trong
Trong kinh tế học, **đất** bao gồm tất cả các tài nguyên có nguồn gốc tự nhiên, chẳng hạn như vị trí địa lý của khu vực đất đai, các tài nguyên khoáng sản dưới
Kinh tế học trọng cung nhấn mạnh các biện pháp nâng cao năng lực sản xuất, đẩy đường tổng cung AS dịch chuyển sang phải, nâng cao tốc độ tăng trưởng tiềm năng, từ đó
**Kinh tế học phúc lợi** là một lĩnh vực nghiên cứu của kinh tế học, trong đó nghiên cứu những vấn đề tiêu chuẩn, cách thức hoạt động kinh tế để làm cho phúc lợi
“Kinh tế học dễ xơi – Khi kinh tế gia bụng đói giải thích về thế giới”. “Kinh tế học dễ xơi – Khi kinh tế gia bụng đói giải thích về thế giới” là
**Kinh tế học tình dục** (_Sexual economics_) là một giả thuyết gây nhiều tranh cãi trong lĩnh vực tâm lý học tiến hóa. Lý thuyết này được cho là liên quan đến cách những cá
KINH TẾ HỌC TRẦN TRỤI (Naked Economics) - Tiếp Cận Kinh Tế Học Dưới Góc Nhìn Dễ Dàng Và Hiệu Quả Nhất - Charles Wheelan - Bích Ngọc dịch (bìa mềm) - Giá bìa: 169.000đ
Hiện nay, ngày càng có nhiều người quan tâm học tập và nghiên cứu Kinh tế học, Những môn học như kinh tế vĩ mô, kinh tế vi mô (các bộ phận cấu thành kinh
Kinh Tế Học Dành Cho Đại Chúng "Cuốn sách Kinh tế học dành cho đại chúng của Giáo sư Steven E.Landsburg thuộc dòng những tác phẩm thú vị kiểu "Kinh tế học hài hước" của
**Kinh tế học thể chế mới** (tiếng Anh: **New institutional economic**) là một trào lưu kinh tế học hiện đại có đối tượng nghiên cứu là những quy ước xã hội, những quy định pháp
Dịch giảtNguyễn Trọng Tuấn, Tạ Ngọc Thạch Kích thướct15.5 x 24cm Nhà xuất bản Thế Giới Số trangt316 Tác giảtNiall Kishtainy Ngày phát hành: 2020 Lược sử kinh tế học: cuốn sách nhập môn kinh
Dịch giảtNguyễn Trọng Tuấn, Tạ Ngọc Thạch Kích thướct15.5 x 24cm Nhà xuất bản Thế Giới Số trangt316 Tác giảtNiall Kishtainy Ngày phát hành: 2020 Lược sử kinh tế học: cuốn sách nhập môn kinh
Sách - Tất Cả Chúng Ta Đều Hành Xử Cảm Tính - Nobel Kinh Tế 2017 “Tất cả chúng ta đều hành xử cảm tính kể cho chúng ta câu chuyện đằng sau những kiến
**Kinh tế học Phật giáo** (tiếng Anh: _Buddhist economics_) là một cách tiếp cận của Phật giáo đối với kinh tế học. Kinh tế học Phật giáo khảo sát đặc điểm tâm lý của trí
Bùng nổ sau Kinh tế học hài hước Kinh tế học hài hước – cuốn sách bán chạy nhất theo bình chọn của New York Times. Với hơn 4 triệu bản được dịch ra 35
COMBO OKRS NGUYÊN LÝ VÀ THỰC TIỄN + KINH TẾ HỌC BEZOS OKRs Nguyên Lý Và Thực Tiễn Mọi thứ bạn cần để áp dụng OKR một cách hiệu quả. OKR căn bản chính là
KINH TẾ HỌC PHẬT GIÁO - KAI ROMHARDT “Trong cuốn sách này của mình, Kai đã cho chúng ta thấy cách mà việc thực hành dừng lại và nhìn sâu có thể trở thành một
Kinh Tế Học Thời Khó Nhọc Tìm ra cách đương đầu với những vấn đề kinh tế trọng yếu có lẽ là thử thách lớn nhất của thời đại chúng ta, hơn cả việc du
Kinh tế học thời khó nhọc ------------ Tìm ra cách đương đầu với những vấn đề kinh tế trọng yếu có lẽ là thử thách lớn nhất của thời đại chúng ta, hơn cả việc
Kinh Tế Học Thời Khó Nhọc Tìm ra cách đương đầu với những vấn đề kinh tế trọng yếu có lẽ là thử thách lớn nhất của thời đại chúng ta, hơn cả việc du
Kinh Tế Học Thời Khó Nhọc Tìm ra cách đương đầu với những vấn đề kinh tế trọng yếu có lẽ là thử thách lớn nhất của thời đại chúng ta, hơn cả việc du
**Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường** (tiếng Anh: _Institute for Social, Economic and Environmental Research_ - **iSEE**) là một tổ chức thành lập năm 2007, có nội dung hoạt động là